Oct 17, 2017

Hòn đá triết học

Một Andersen triết gia? Điều này hẳn rất nhiều người đã thấy, nhưng là theo đường lối ẩn dụ. Tuy nhiên, Andersen chính là một triết gia đích thực, không chỉ là ẩn dụ. Câu chuyện dưới đây, Hòn đá triết học, là một trong những thời điểm Andersen thể hiện điều đó rõ hơn cả. Đây cũng là một câu chuyện hết sức đặc biệt; nó nằm trong tập truyện 1861-1866 (và nằm ngay sau truyện hết sức nổi tiếng "Ông già làm gì cũng đúng", trước câu chuyện về thằng bù nhìn tuyết).

Giờ đây, khi sắp kết thúc chuyến lướt qua thế giới của Andersen, tôi nghĩ đã dễ dàng hơn trong việc nói về một số điều.


(tôi sẽ viết tiếp phần "introduction" cho câu chuyện mà tôi nghĩ là hết sức quan trọng cho việc nhìn nhận thực tại Andersen này)


(ở đầu truyện, Andersen nhắc đến Holger, tức là "Ogier", người anh hùng dân gian Đan Mạch; Andersen từng viết một câu chuyện riêng về nhân vật này, in trong tập truyện của giai đoạn 1844-1848; Christen Pedersen cũng xuất hiện trong không ít câu chuyện của Andersen: nhân vật sống chủ yếu trong thế kỷ 16 này là một trong những khuôn mặt lớn nhất của thời Phục hưng Đan Mạch)


nhân tiện:

+ đã tiếp tục Les Fleurs de Tarbes của Jean Paulhan: Paulhan xộc thẳng vào những gì khó diễn đạt của văn chương, một cách dễ dàng như không, và ơn trời, Paulhan rất ngắn gọn
+ đã tiếp tục Adolphe của Benjamin Constant: là "cương lĩnh tinh thần" của tuổi trẻ một thời (thời đầu thế kỷ 19 - Adolphe được xuất bản năm 1816, tức là khi ấy Balzac mười bảy tuổi), Adolphe cũng chính là một tác phẩm tự truyện của Benjamin Constant, cái tên không xa lạ với những ai thực sự rành về lịch sử của "liberal", và đồng thời đó cũng là một câu chuyện tình yêu kiệt xuất




Hòn đá triết học


Chắc chắn bạn có biết câu chuyện về Holger anh hùng Đan Mạch; chúng tôi không định kể nó cho bạn, chúng tôi chỉ muốn hỏi xem bạn có nhớ câu chuyện ấy kể rằng “Holger anh hùng Đan Mạch chinh phục đất nước Ấn Độ vĩ đại, trải rộng về phía Đông đến tận cùng thế giới, cho tới chỗ cái cây mang tên Cây Mặt Trời”, như Christen Pedersen viết; bạn có biết Christen Pedersen không? không có gì trầm trọng nếu bạn không biết ông ấy. Holger anh hùng Đan Mạch trao cho Tu sĩ John sức mạnh và quyền lực trị vì đất nước Ấn Độ. Bạn có biết Tu sĩ John không? Ừ thì, cả đây nữa, không có gì trầm trọng nếu bạn không biết ông ấy, bởi vì trong câu chuyện dưới đây ông ấy sẽ hoàn toàn không được nhắc đến; bạn sẽ nghe về Cây Mặt Trời tại “đất nước Ấn Độ, trải rộng về phía Đông đến tận cùng thế giới”, giống như người ta từng hình dung, vào cái thời người ta còn chưa học môn địa dư giống như chúng ta học; nhưng cả điều này cũng không có gì là trầm trọng nốt!

Cây Mặt Trời là một cái cây tuyệt diệu, như chúng ta từng chưa bao giờ nhìn thấy, như bạn hẳn sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy; riêng ngọn của nó thôi cũng đã rộng đến hàng dặm, trên thực tế đó là cả một khu rừng, mỗi cành của nó, dẫu nhỏ đến đâu, cũng là cả một cái cây; có cọ, sồi, thông, tiêu huyền, đủ mọi loại cây mà người ta vẫn bắt gặp trên toàn thế giới mọc lên ở đó giống như những cành nhỏ trên các cành lớn, và những cành lớn đó, đến lượt mình, với các đường uốn và chỗ đan cài vào với nhau, tạo thành giống như những thung lũng và đồi, chúng phủ trên mình một màu lục dịu giống thứ nhung lấm chấm hoa; mỗi cành cây lại giống một đồng cỏ rộng mênh mông nở hoa hoặc khu vườn thuộc loại rực rỡ nhất; mặt trời rọi xuống những tia nắng tốt lành, bởi đó là cái cây mặt trời, và chim chóc từ khắp nơi trên toàn thế giới tụ tập về đó, chim từ những khu rừng hoang sơ xa xôi của châu Mỹ, các vườn hồng Damascus, từ thảo nguyên hoang mạc miền trung châu Phi, nơi voi và sư tử tự coi mình là chúa tể độc tôn; chim từ vùng cực đến đó và dĩ nhiên cò cùng én cũng đến đó; nhưng không phải chỉ có mỗi chim, mà hươu, sóc, linh dương và hàng trăm loài thú nhanh nhẹn và tuyệt đẹp khác cũng sống ở đây; ngọn cây là một khu vườn lớn rộn hương và ở giữa, nơi những cành lớn nhất trải rộng như các ngọn đồi màu lục, có một lâu đài pha lê từ đó có thể nhìn xuống tất tật đất nước trên đời; những ngọn tháp mọc lên như hoa ly, người ta có thể trèo lên thân của nó, bởi vì bên trong có cầu thang, như chắc chắn bạn cũng đã hiểu, người ta có thể đi ra ngoài trên những cái lá, đó là các ban công, và tít trên cao bản thân đài của bông hoa, có một căn phòng hình tròn, sáng bừng, đẹp vô cùng, mái nhà không là gì khác ngoài chính bầu trời xanh lơ cùng mặt trời và các ngôi sao; phía dưới, trong những căn phòng rộng của lâu đài, cũng tuyệt đẹp như vậy, nhưng là theo cách khác, ở đó, khắp xung quanh, toàn thể thế giới được phản chiếu trên các bức tường; người ta có thể nhìn thấy mọi chuyện gì đang diễn ra, thành thử không cần phải đọc báo nữa, vả lại cũng không có báo. Người ta có thể nhìn thấy mọi thứ dưới dạng những bức tranh sống động, với điều kiện người ta có thể, hoặc muốn xem; bởi vì như thế là rất nhiều, quá nhiều, ngay cả đối với con người thông thái nhất, và đây chính là nơi ở của người thông thái nhất. Tên của ông rất khó nhớ, bạn không thể nói tên ông và, mặt khác, điều này không có gì trầm trọng. Ông biết mọi điều gì mà một người có thể và sẽ có thể biết trên mặt đất này; mọi sáng chế từng có và sẽ có, nhưng chỉ thế mà không hơn, bởi vì mọi thứ đều có giới hạn. Ông vua thông thái Salomon chỉ sở hữu một nửa sự thông thái của ông, và thế nhưng đức vua đã thông thái lắm rồi; ngài thống trị các lực của tự nhiên, những trí tuệ hùng mạnh nhất và, sáng sáng, bản thân Cái Chết cũng phải thông báo cho ngài, mang nộp cho ngài xem danh sách những người sẽ chết vào ngày hôm ấy, nhưng bản thân Salomon cũng đã phải chết, và đây chính là ý nghĩ thường xuyên, và rất dai dẳng, chiếm lĩnh tâm trí của nhà tư tưởng, vị chủ nhân hùng mạnh của tòa lâu đài trên Cây Mặt Trời. Sự thông thái của ông có vượt xa mọi người khác thì ông vẫn biết rằng cả ông, rồi một ngày, cũng sẽ phải chết, rằng các con của ông sẽ phải chết; họ sẽ rơi rụng giống như lá trong rừng rồi biến thành cát bụi. Ông nhìn thấy loài người bị cuốn đi theo gió, giống những chiếc lá trên cây, và những lá mới nảy ra thay thế, nhưng những cái lá đã rụng thì chẳng bao giờ mọc lại nữa, chúng biến thành cát bụi, đi vào các phần khác của những cái cây. Điều gì xảy đến với con người vào thời điểm thiên thần chết chóc xuất hiện? Chết nghĩa là gì? Thân xác bị phân hủy, còn tâm hồn… à mà, tâm hồn là gì? Nó sẽ thành ra cái gì? Nó sẽ đi đâu? “Đến với cuộc sống vĩnh cửu”, giọng nói đầy an ủi của tôn giáo bảo vậy; nhưng chuyến đi ấy diễn ra như thế nào? Người ta sống ở đâu, và như thế nào? “Trên trời cao kia! những con người sùng đạo nói, chúng ta sẽ lên trên cao kia!…” nhà thông thái nhắc lại, ông ngẩng đầu nhìn mặt trời và các ngôi sao. “Trên cao kia!”, và nhìn xuống khối tròn trái đất, ông nhận ra trên và dưới chỉ là một, cùng là một thứ, bởi vì người ta luôn luôn ở trên quả cầu treo lơ lửng trong không trung; và ngay cả nếu vươn lên cao như những ngọn núi cao nhất trên trái đất vươn đỉnh của chúng lên, lên với không khí mà chúng ta thấy sáng và trong suốt và chúng ta gọi là “bầu trời trong vắt”, thì không khí đó biến thành bóng tối đen như than, như tấm vải trùm lên, và mặt trời thì cháy bừng như lửa, không chiếu các tia sáng, mặt đất của chúng ta bị bao bọc trong một làn sương mù màu cam. Có các giới hạn cho những gì mà con mắt của cơ thể có thể nhìn thấy, còn con mắt của tâm hồn thì nhìn được sao mà ít ỏi đến thế! sao mà hiểu biết của chúng ta hạn hẹp đến thế, ngay cả người thông thái nhất cũng chỉ biết rất ít về những gì quan trọng hơn cả đối với chúng ta!

Trong căn phòng bí mật của tòa lâu đài, có kho báu lớn nhất trên trái đất: “Quyển Sách Sự Thật”. Ông đọc nó, hết trang này sang trang khác. Đó là quyển sách mà bất kỳ ai cũng có thể đọc, nhưng chỉ đọc được các đoạn rời, trước mắt rất nhiều người, chữ như thể run rẩy, thành thử họ không thể đọc rõ các từ; trên một số trang, chữ viết lại thường rất mờ, rất khó đọc, đến mức người ta chỉ trông thấy một trang trống; càng thông thái, người ta càng có thể đọc nhiều hơn, và người nào thông thái nhất sẽ đọc được nhiều nhất; thêm vào đó người ấy lại còn biết tập hợp ánh sáng của các vì sao, ánh sáng của mặt trời, ánh sáng của các sức mạnh bị giấu kín và ánh sáng của tinh thần, và dưới luồng ánh sáng mạnh hơn hẳn này nhiều thứ hiện ra thật rõ ràng với ông từ các trang sách, nhưng trong cái phần của cuốn sách mang nhan đề “Cuộc sống sau cái chết”, ông không nhìn thấy chữ nào hết cả. Điều này khiến ông buồn bã… có phải ông sẽ chẳng thể nào, trên trái đất này, tìm được một loại ánh sáng đủ sức làm hiện ra những gì đã được viết về điều đó trong Quyển Sách Sự Thật?

Cũng như ông vua thông thái Salomon, ông hiểu ngôn ngữ các loài vật, ông nghe thấy tiếng hát của chúng và lời lẽ của chúng, nhưng cái đó chẳng trả lời được cho câu hỏi của ông; ông khám phá những sức mạnh nằm trong các cây và kim loại, những sức mạnh cho phép đẩy xa bệnh tật, đẩy lui cái chết, nhưng không tiêu diệt được nó đi. Trong tất tật những gì từng được tạo ra và ông có thể đạt đến, ông tìm kiếm ánh sáng đủ sức làm xuất hiện sự chắc chắn về một cuộc sống vĩnh cửu, nhưng không tìm ra, Quyển Sách Sự Thật nằm đó, trước mặt ông, như thể chỉ gồm toàn các trang trắng. Đạo Ki-tô chỉ cho ông, trong Kinh Thánh, những lời hứa về cuộc sống vĩnh cửu, nhưng ông muốn đọc thấy điều này trong cuốn sách của ông, nhưng ông chẳng thấy gì ở đó.

Ông có năm đứa con, bốn trai, cũng đầy hiểu biết giống như con người thông thái nhất có thể dạy dỗ các con của mình, và một đứa con gái, xinh đẹp, dịu dàng và trí tuệ, nhưng bị mù, tuy nhiên cô bé không hề tỏ ra đau khổ vì điều này; bố và các anh cô là những con mắt cho cô, và các cảm giác nhạy bén nhìn hộ cho cô.

Chưa bao giờ những đứa con trai của ông rời xa các căn phòng của lâu đài quá nơi nào các cành cây vươn tới, em gái của họ lại càng ít hơn, đó là những đứa trẻ sung sướng tại tổ ấm tuổi thơ, tại vùng đất của tuổi thơ, nơi Cây Mặt Trời tuyệt đẹp tỏa hương. Cũng như mọi trẻ con, chúng rất thích nghe kể chuyện, và bố chúng kể cho chúng rất nhiều điều mà những đứa trẻ khác hẳn sẽ không hiểu nổi, nhưng phải nói rằng chúng trí tuệ ngang với phần lớn người nhiều tuổi ở chỗ chúng ta, ông giải thích cho chúng về những gì mà chúng nhìn thấy trên những bức tranh sống động tại các bức tường của lâu đài, lao động nhọc nhằn của con người và dòng chảy các sự kiện ở mọi đất nước trên đời, và thường thì, những đứa con trai mong muốn được đến nhiều nơi để tham gia các chiến công ấy, bố chúng bèn nói rằng cuộc sống trên trái đất nặng nề và cay đắng, hoàn toàn không giống như chúng vẫn thấy từ thế giới trẻ con tuyệt diệu. Ông nói cho chúng về cái đẹp, cái đúng và cái tốt, bảo với chúng rằng chính ba điều ấy duy trì thế giới và rằng, dưới sức ép mà chúng phải chịu, chúng biến thành một viên đá quý trong hơn nước của kim cương; sự rực rỡ của nó có giá trị cả trong mắt Chúa, nó vượt qua mọi thứ và, trên thực tế, đó chính là cái mà người ta vẫn gọi “hòn đá triết học”. Ông nói với chúng rằng, cũng như người ta có thể chắc chắn vào sự tồn tại của Chúa thông qua những gì được tạo ra, tự bản thân mình người ta có thể, thông qua phương tiện con người, chắc chắn rằng một hòn đá quý như vậy có tồn tại; ông không nói thêm được gì về nó, vì ông không biết. Câu chuyện này hẳn sẽ rất khó hiểu đối với những đứa trẻ con khác, nhưng các con của ông thì hiểu, và hẳn những đứa khác rồi về sau cũng sẽ hiểu.

Chúng đặt cho bố chúng các câu hỏi về cái đẹp, cái đúng và cái tốt, và ông giảng giải, ông nói cho chúng rất nhiều điều, ông cũng nói với chúng rằng lúc Chúa tạo ra con người từ đất, Người đã hôn năm lần lên tạo vật của mình, những nụ hôn nồng nhiệt, những nụ hôn của trái tim, và đó chính là những gì ngày nay chúng ta gọi là ngũ quan; chính nhờ chúng mà người ta có thể tri nhận cái đẹp, cái đúng và cái tốt, và nhờ chúng người ta biết coi trọng, bảo vệ và khích lệ cái đẹp, cái đúng và cái tốt; năm giác quan đã được trao cho chúng ta, về phía bên trong và về phía bên ngoài, rễ và ngọn, cơ thể và tâm hồn.

Lũ trẻ nghĩ rất nhiều đến những điều ấy, những điều chiếm lĩnh suy nghĩ của chúng cả ngày lẫn đêm; rồi một hôm, thằng bé lớn nhất có một giấc mơ và, thật lạ lùng, đứa thứ hai cũng mơ giống thế, đứa thứ ba cũng mơ giống thế, giống luôn cả đứa thứ tư, cả bốn cùng mơ chính xác thấy cùng một giấc mơ; cậu bé mơ mình đi ra thế giới và tìm được hòn đá triết học; giống như một ngọn lửa rực sáng, nó rọi sáng lên trán cậu, khi cậu trở về vào lúc bình minh, cưỡi trên lưng con ngựa lao đi như tên bắn, băng ngang các bãi cỏ trong khu vườn gia đình, màu lục mịn màng như nhung, rồi vào trong tòa lâu đài cha ông, và viên đá quý tỏa ra một ánh sáng vả vẻ rạng ngời lên các trang của quyển sách đến mức những gì được viết về cuộc sống sau cái chết hiện rõ lên. Em gái chúng không mơ thấy mình đi ra ngoài thế giới, ý nghĩ này không nảy ra trong đầu óc cô bé, thế giới của cô là ngôi nhà của bố cô.

- Anh sẽ cưỡi ngựa đi khắp thế giới rộng lớn! đứa con cả nói, anh phải biết nó như thế nào, anh muốn đi lại giữa con người; anh chỉ muốn cái tốt và cái đúng và, thông qua chúng, anh sẽ bảo vệ cái đẹp. Rất nhiều điều sẽ trở nên tốt đẹp hơn chừng nào anh trở về! Đúng vậy, cậu có những dự định táo bạo, cũng như tất tật chúng ta, khi chúng ta ngồi bên góc lò sưởi, trong nhà, trước khi bước ra thế giới rộng lớn để rồi gặp mưa và mưa phùn cùng các bụi gai.

Năm giác quan, hướng vào trong và hướng ra ngoài, rất phát triển ở cậu cũng như ở những đứa em, nhưng mỗi thằng bé có một giác quan đặc biệt, mạnh hơn và phát triển hơn so với các giác quan khác; ở thằng cả, chủ yếu thị giác hết sức tinh nhạy. Cậu có cặp mắt giúp cậu nhìn thấy mọi thời đại, cậu nói thế, cặp mắt cho phép cậu nhìn thấy mọi dân tộc, cặp mắt có thể chui sâu vào trong lòng đất, nơi có các kho báu, xâm nhập lồng ngực con người, như thể nó chỉ được bảo vệ bởi một tấm kính… tức là cậu nhìn được nhiều thứ hơn chúng ta trên gò má ửng đỏ và tái đi, trong con mắt khóc hoặc cười. Hươu và linh dương đi tiễn cậu ra đến biên giới phía Tây, và lũ thiên nga hoang dã đến rồi đi về phía Tây Bắc, cậu đi theo chúng, và vậy là cậu đã ở thật xa, ngoài thế giới rộng lớn, xa khỏi vùng đất của bố cậu, vùng đất trải rộng “về phía Đông đến tận cùng thế giới”.

Ồ! mắt cậu mở mới lớn chứ! có rất nhiều thứ để nhìn, và luôn luôn thật khác khi nhìn địa điểm và sự vật thực, so với nhìn chúng trên tranh, dẫu chất lượng tranh có cao đến đâu, và những bức tranh tại nhà cậu, nơi lâu đài của ông bố, có chất lượng tuyệt hảo. Thiếu điều ngay vào lúc ấy cậu đã mất luôn hai con mắt, bởi vì cậu quá sức kinh ngạc khi nhìn thấy toàn bộ những thứ rác rưởi và đồ giả trang mà người ta trưng bày giống như chúng là cái đẹp, nhưng rốt cuộc cậu đã không đánh mất đôi mắt, cậu còn dành chúng cho việc khác.

Cậu muốn thực hiện một cách hệ thống và thật trung thực cuộc truy tầm cái đẹp, cái đúng và cái tốt của mình, nhưng làm sao giờ? Cậu trông thấy, thông thường, những gì xấu thì lại nhận được choàng vòng hoa, trong khi lẽ ra cái đẹp phải nhận được, cái đẹp chẳng mấy khi được để ý, sự tầm thường thì lại được tán thưởng thay vì bị đẩy lùi đi. Người ta quan tâm đến những cái tên, thay vì tài năng, họ nhìn trang phục, chứ không nhìn con người, danh tiếng, chứ không phải khả năng phụng sự. Đâu đâu cũng vậy hết.

“Vậy thì, sẽ phải nghiêm túc bắt tay vào việc đây! cậu nghĩ, và cậu bắt đầu làm việc; nhưng trong khi cậu tìm kiếm cái đúng, quỷ đến, nó chính là cha đẻ của dối trá và là hiện thân của dối trá, con quỷ những muốn ngay lập tức móc hai con mắt của Người Nhìn, nhưng như thế thì quá thô thiển; quỷ bèn làm chuyện này một cách khéo léo hơn, để mặc cho cậu bé đi tìm cái đúng rồi chiêm ngưỡng, cũng như cái đẹp, nhưng trong lúc cậu nhìn, quỷ thổi một cọng rơm vào mắt cậu, cả hai mắt, một cọng rơm rồi lại thêm một cọng rơm, vậy thì chẳng hề tốt cho cái nhìn, ngay cả với cái nhìn tuyệt hảo nhất; quỷ làm cọng rơm phồng tướng lên đến mức nó trở thành một thanh xà, và đến đây là hết chuyện với cặp mắt đó, Người Nhìn trở nên giống như một người mù trong thế giới rộng lớn, và không còn tin tưởng vào đó; cậu rời bỏ những suy nghĩ tốt mà cậu từng có về thế giới và về bản thân mình, và chừng nào người ta rời bỏ cả thế giới lẫn bản thân mình, thế thì, mọi chuyện đã hoàn toàn kết thúc.

- Hết rồi! lũ thiên nga hoang hát, chúng bay qua trên mặt biển, về phía Đông; “hết rồi!” lũ chim én hát, chúng bay về phía Đông để đến chỗ Cây Mặt Trời, đó không phải những tin tức tốt lành đối với những người đang đợi ở nhà.

- Chắc chuyện đã không ổn với Nhìn rồi! đứa con trai thứ hai nói, nhưng chắc chắn sẽ tốt đẹp hơn rất nhiều đối với Nghe! Cậu luyện tập tai nghe rất ghê, đến mức nghe thấy được cả tiếng cỏ mọc, cậu còn làm được như vậy cơ mà.

Cậu trang trọng nói lời chào tạm biệt, cưỡi ngựa lên đường ra đi, cùng các khả năng to lớn và những quyết tâm tốt đẹp. Lũ chim én bay theo cậu và cậu đi cùng lũ chim én, và thế là cậu đã ở cách thật xa nhà, trong thế giới rộng lớn.

Không được lạm dụng những điều tốt đẹp, cậu buộc phải nhận ra rằng thính giác đã phát triển quá mức ở cậu, chắc chắn cậu nghe được cỏ mọc, nhưng cậu cũng nghe thấy mọi trái tim con người đập vì niềm vui và vì nỗi đau khổ, cậu có cảm giác cả thế giới chỉ là một xưởng sản xuất đồng hồ thật lớn, tại đó mọi đồng hồ đeo tay kêu “tíc tắc!” còn mọi đồng hồ treo tường thì kêu “đinh, đoong!”, không! không thể chịu nổi! Nhưng cậu vẫn dỏng tai lên lâu hết mức mà cậu có thể; rốt cuộc, toàn bộ sự ồn ã ấy và tất cả những tiếng hét ấy là quá nhiều đối với một người duy nhất; có những kẻ du côn ở tuổi sáu mươi, tuổi tác cũng chẳng thay đổi được gì; bọn họ la hét, đến là buồn cười, nhưng rồi sau đó, có những lời đồn thổi, tiếng huýt sáo của bọn họ băng ngang mọi ngôi nhà, ngõ và phố, ra đường cái quan; sự dối trá tự phô trương và làm ra vẻ đại lãnh chúa, lục lạc của kẻ điên vang lên và tự nhận rằng nó là một cái chuông nhà thờ, như vậy là quá mức đối với Người Nghe, cậu lấy tay bịt tai lại… nhưng cậu vẫn nghe thấy người ta hát sai nhạc và những âm thanh tồi tệ, tán nhảm và bệ rạc, những lời đinh ninh bướng bỉnh không đáng đến một xu bay lơ lửng trên ngôn ngữ, thành thử người ta nghe thấy những tiếng “cờ-rắc! cờ-rắc!” tại xã hội thượng lưu. Có tiếng ồn và những tiếng hét, sự ồn ĩ và tiếng náo động, bên ngoài và bên trong, Cầu Chúa che chở! Thật không sao chịu nổi, đến là phát điên phát rồ mất thôi! Cậu nhét ngón tay sâu hơn một chút vào trong tai, sâu hơn nữa, và thế là màng nhĩ của cậu bị thủng, giờ đây, cậu không nghe thấy gì nữa, cái đẹp, cái đúng và cái tốt cũng không luôn, trong khi thính giác lẽ ra phải là một cây cầu dẫn đến suy nghĩ, và thế là cậu trở nên im lìm và đầy nghi ngại, chẳng còn tin ai nữa, thậm chí rốt cuộc còn không tin vào bản thân cậu, như thế thì rất bất hạnh; cậu sẽ không tìm ra và không mang được về nhà viên đá quý giá hùng mạnh, và cậu từ bỏ việc ấy, từ bỏ luôn chính bản thân mình, chính đó là điều tệ hại nhất. Lũ chim bay về phía Đông thông báo tin này, và tin ấy đến lâu đài của ông bố trên Cây Mặt Trời; chẳng có bức thư nào, vả lại làm gì có dịch vụ bưu điện.

- Giờ, đã tới lúc mình phải thử sức rồi đây! đứa con trai thứ ba nói, mũi mình rất thính! và cũng không hẳn cậu có khứu giác rất tinh nhạy, mà đó là một cách để miêu tả, và cần phải miêu tả một cách chính xác, cậu là hiện thân của tính khí vui vẻ, và cậu là nhà thơ, một nhà thơ đích thực, cậu biết hát lên những gì không thể nói; rất nhiều điều nảy ra trong tâm trí cậu trước những người khác rất lâu. “Tôi thính lắm!” cậu nói, và cậu cho đó là do khứu giác của cậu rất phát triển, mà khứu giác của cậu cũng đặc biệt thật, vậy thì thật có nhiều lợi thế trong địa hạt của cái đẹp; “người này thích mùi táo, người kia lại thích mùi chuồng ngựa! cậu nói, mỗi vùng mùi vị trong vương quốc cái đẹp có công chúng riêng của nó. Một số cảm thấy rất thoải mái trong bầu không khí quán rượu, dưới ánh sáng ngọn nến mỡ mù mịt khói, nơi mùi hôi thối của rượu mạnh trộn lẫn vào với thứ khói gây buồn nôn của thuốc lá, những người khác lại rất thích được hít hương ngạt ngào của hoa nhài hoặc bôi tinh dầu đinh hương lên người. Lại có những người khác nữa tìm kiếm làn gió biển thật mát, hoặc leo lên đỉnh núi cao để có thể ngắm nhìn sự náo loạn của cuộc sống thường nhật!” Cậu nói như thế đấy; hẳn người ta sẽ nghĩ trước đây cậu từng ra ngoài thế giới, sống cùng con người và biết rõ họ, nhưng thật ra cậu sở hữu sự thông thái này ở bên trong, đó chính là nhà thơ bên trong con người cậu, món quà mà Đức Chúa đã trao tặng khi cậu sinh ra đời.

Cậu chào tạm biệt tổ ấm gia đình trên Cây Mặt Trời, băng qua tổ ấm đẹp đẽ, và lúc đã ra đến bên ngoài, cậu ngồi lên lưng con đà điểu có thể chạy còn nhanh hơn cả ngựa, và khi sau đó nhìn thấy lũ thiên nga hoang, cậu bèn trèo lên lưng con thiên nga khỏe nhất; cậu rất thích thay đổi, và cậu bay trên biển, đến những đất nước xa lạ, với các khu rừng thật lớn, các hồ sâu, những ngọn núi đồ sộ và những thành phố kiêu hãnh, và mọi nơi nào cậu đặt chân đến, người ta thấy như thể mặt trời bừng sáng; mỗi bông hoa và mỗi bụi rậm lại càng tỏa hương nhiều hơn bởi vì chúng có cảm giác đang được ở gần một người bạn, một người bảo trợ, người ấy coi trọng chúng và hiểu chúng, hàng giậu hoa hồng còi cọc cũng giơ các cành của nó lên, xòe những chiếc lá và trưng bông hồng tươi tắn nhất, ai cũng có thể nhìn thấy, ngay cả con ốc sên đen kịt người đầy nhớt cũng nhận thấy bông hoa đẹp đến chừng nào.

- Mình sẽ đánh dấu lên bông hồng! con sên nói, rồi, mình đã nhổ nước dãi lên nó, mình không làm được gì hơn thế!

- Chắc hẳn đây chính là điều xảy đến với cái đẹp ở trên đời! nhà thơ nói, và cậu hát một bài về chủ đề này, hát theo cách riêng của cậu, nhưng chẳng ai nghe; chính vì thế cậu đưa hai đồng schilling và một cái lông công cho người đánh trống của thành phố, ông ta soạn lại bài hát cho trống và chơi nó khắp nơi trong thành phố, trên mọi phố và ngõ; vậy nên, người ta nghe thấy bài hát và nói họ hiểu nó, nó hết sức sâu sắc! và giờ đây, nhà thơ có thể hát những bài khác, thế là cậu hát về cái đẹp, cái đúng và cái tốt, và họ nghe chúng tại quán rượu, nơi ngọn nến mỡ bốc khói, họ nghe thấy chúng trên đồng cỏ tươi mát, trong khu rừng và ngoài biển khơi; người ta có thể tin rằng người con trai này gặp nhiều may mắn hơn so với hai người trước đó; nhưng con quỷ không thích như thế một chút nào, và ngay lập tức nó xộc đến, bắt tay vào chưng cất, từ bột làm hương cùng khói hương, để làm ra một hương thơm đủ sức gây rối trí cho một thiên thần, chưa nói gì đến một nhà thơ tội nghiệp; quỷ biết rõ cần phải làm gì với những người như vậy! quỷ dùng loại hương mà nó tạo ra bao vây nhà thơ kín mít, thành thử cậu không còn kiểm soát bản thân được nữa, quên biến sứ mệnh, tổ ấm ông cha… mọi thứ, kể cả chính bản thân cậu; rốt cuộc cậu biến thành khói và tan biến đi vào hương thơm.

Tất tật lũ chim nhỏ, khi nghe thấy điều đó, đều hết sức buồn bã, chúng không hót trong vòng ba ngày. Con sên đen trong rừng còn trở nên đen hơn, không phải vì buồn, mà vì ghen tị. “Lẽ ra chính ta đây, nó nói, mới nên được hóa thành khói chứ, bởi vì ta đã truyền cho cậu ta ý tưởng về bài hát nổi tiếng nhất của cậu ta, cái bài cho trống ấy, về chuyện thế giới hoạt động như thế nào! chính ta đã nhổ nước bọt lên bông hoa hồng, ta có thể tìm ra nhiều chứng nhân cho điều đó!”

Nhưng ở nhà cậu, tại đất nước Ấn Độ, người ta không được biết về điều này; mọi con chim nhỏ để tang và im lặng trong vòng ba ngày, và khi thời gian để tang đã mãn, nỗi buồn trở nên lớn tới mức chúng quên biến mình đã để tang ai. Mọi chuyện xảy ra như thế đấy!

- Giờ, đến lượt mình đi ra ngoài thế giới! và biến mất đi giống như các anh mình! đứa con trai thứ tư nói. Cậu cũng có cùng tâm tính vui vẻ giống người anh kế, nhưng không phải là nhà thơ, và cậu có nhiều lý do tốt đẹp để vui vẻ tâm trí; đó là hai thằng bé mang lại sự vui tươi cho tòa lâu đài; giờ đây, sự vui tươi cuối cùng đã ra đi. Thị giác và thính giác vẫn luôn luôn được con người coi là hai giác quan trọng yếu hơn cả, những giác quan mà họ rất muốn phát triển một cách đặc biệt, ba giác quan kia được coi là kém tính chất sống còn hơn, nhưng đứa con này hoàn toàn không nhất trí với ý kiến ấy, chủ yếu là vị giác, hiểu theo mọi nghĩa của từ này, rất phát triển ở cậu, và vị giác, gu, có một quyền năng rộng lớn, cũng như một uy quyền to lớn. Nó thống trị những gì đi qua miệng cũng như những gì đi qua tinh thần, chính vì vậy cậu bé nếm mọi thứ trong nồi niêu xoong chảo, trong những cái chai và những cái thùng; đó là khía cạnh thô thiển trong sứ mệnh của cậu, cậu nói; mỗi con người, đối với cậu, là một cái nồi trong đó có thứ gì đó được nấu, mỗi đất nước là một nhà bếp rộng mênh mông, xét về mặt trí năng mà nói, đó là khía cạnh cao quý, và giờ đây, cậu muốn lên đường ra đi nhằm khám phá khía cạnh cao quý đó.

- Có thể may mắn sẽ mỉm cười với mình nhiều hơn so với các anh của mình! cậu nói. Mình sẽ đi! nhưng mình nên sử dụng phương tiện giao thông nào đây? Chẳng biết người ta đã phát minh ra khinh khí cầu chưa nhỉ? cậu hỏi bố, tất nhiên ông biết rõ mọi phát minh, cũng như các phát minh trong tương lai. Nhưng người ta còn chưa làm ra được khinh khí cầu, cũng như tàu thủy hơi nước hay đường tàu hỏa. “Được rồi, vậy thì, mình sẽ đi bằng khinh khí cầu! Bố mình biết cách làm ra chúng và điều khiển chúng, mình sẽ học! Vẫn chưa có ai biết gì về phát minh này, họ sẽ tưởng đó là một ảo giác; chừng nào dùng xong khinh khí cầu, mình sẽ đốt nó đi, chính vì thế mình cần đến một phát minh trong tương lai: mình cần vài que diêm!”

Cậu lấy được tất tật những thứ đó, thế là cậu bay đi, lũ chim đi cùng, xa hơn so với chúng từng đi theo những người anh, chúng muốn xem quả bóng lớn kia sẽ bay như thế nào và càng lúc càng có nhiều chim hơn, bởi vì chúng rất hiếu kỳ, có một con chim mới đang bay, chúng nghĩ; thực sự là có cả một đoàn hộ tống đi theo! Trên không trung đông đặc chim, chúng đến như một đám mây lớn, như đám mây châu chấu trên đất nước Ai Cập, và cậu bé mau chóng đi ra ngoài thế giới rộng lớn.

- Gió Đông đúng là một người bạn tốt, đã giúp đỡ mình, cậu nói.

- Chắc cậu muốn nói gió Đông và gió Nam! lũ gió đáp. Hai chúng tôi đã thay nhau thổi, nếu không cậu sẽ không đến được Tây Bắc!

Nhưng cậu không nghe thấy những lời gió nói, và điều này cũng chẳng có gì trầm trọng. Lũ chim giờ đây không còn đi theo cậu nữa; khi chúng đang đông đảo nhất, vài con cảm thấy chán. Người ta làm ồn vì chuyện này quá, chúng nói. Thằng bé kia chỉ giỏi tưởng tượng thôi, “không thực sự đáng đi theo cậu ta, chẳng có gì hết! chẳng được lợi ích gì!” và chúng ở lại đó, và tất cả chúng ở lại đó, bởi vì chẳng có gì hết.

Và khinh khí cầu hạ xuống một trong những thành phố lớn nhất, phi hành gia thì đáp xuống nơi cao nhất, đó là gác chuông của nhà thờ. Khinh khí cầu lại bay lên không trung, lẽ ra nó không nên làm thế; thật không dễ nói về sau nó ra sao, nhưng điều này không có gì trầm trọng, nó vẫn còn chưa được phát minh cơ mà.

Vậy là giờ đây cậu bé ở đó, tít trên cao, nơi gác chuông của nhà thờ, lũ chim không bay quanh nữa, chúng đã chán cậu, và cậu cũng chán chúng. Mọi ống khói trong thành phố đều vui vẻ bốc khói.

- Đó chính là các ban thờ dựng lên cho cậu đấy! gió nói; nó muốn nói một điều gì đó dễ chịu với thằng bé. Thằng bé ở đó, khá là gan dạ, và cậu nhìn những người dưới phố, người này thì tự hào vì túi tiền của mình, người kia thì tự hào với cái chìa khóa treo trên vạt áo [quả thật tại Đan Mạch một thời các chức sắc đeo chìa khóa như vậy], dẫu chẳng có cánh cửa nào để mở; một người thì tự hào vì trang phục đầy rận của anh ta, một người khác lại tự hào vì cơ thể lúc nhúc dòi bọ.

- Phù phiếm!… Ừ thì, sắp sửa mình sẽ phải xuống, thò ngón tay vào nồi rồi nếm! cậu nói, nhưng mình sẽ ở lại đây thêm một chốc nữa, gió gãi vào lưng mình dễ chịu quá, mình rất thích. Mình sẽ ở lại đây đến chừng nào gió còn thổi. Mình muốn được yên tĩnh một chút; thật sung sướng khi được ngủ nướng vào buổi sáng nếu không có nhiều việc để làm, tên lười nói; nhưng sự lười biếng là gốc rễ cho mọi điều xấu, và sự xấu thì ở nhà mình làm gì có, đó là điều bất kỳ thằng con trai nào cũng nói lúc ngoài đường! Mình sẽ ở lại đây đến chừng nào gió còn thổi, mình thích quá!

Và cậu ở lại trên gác chuông, nhưng cậu lại còn ngồi trên mũi tên chỉ hướng gió, mũi tên cứ thế quay tròn cùng cậu, thành thử cậu cứ tưởng gió vẫn tiếp tục thổi; cậu ở lại đó, và hẳn cậu còn có thể ở lại đó thật lâu, để nhấm nháp không khí.

Nhưng tại đất nước Ấn Độ, trong lâu đài của Cây Mặt Trời, mọi thứ đều trống rỗng và im lìm, khi những đứa con trai đã ra đi, hết đứa này đến đứa khác.

- Chúng không ổn! ông bố nói, sẽ chẳng bao giờ chúng mang được về nhà viên đá quý sáng lấp lánh, nó không tồn tại đối với ta, chúng đã biến mất, chúng đã chết!… Và ông cúi xuống Quyển sách Sự thật, chăm chăm nhìn trang giấy nơi hẳn ông sẽ đọc được về cuộc sống sau khi chết, nhưng đối với ông chẳng có gì để xem cũng như để đọc.

Cô con gái mù là niềm an ủi và niềm vui của ông; cô bé thân thiết gắn bó với ông; vì niềm vui và hạnh phúc của bố, cô muốn món trang sức quý được tìm thấy và mang về. Đầy buồn bã và với một ham muốn cháy bỏng, cô nghĩ đến những người anh trai, họ đang ở đâu? Họ sống nơi nào? Cô rất mong mỏi mình có thể mơ thấy họ, nhưng, thật kỳ lạ, cả trong mơ cô cũng không gặp được họ. Một đêm nọ, rốt cuộc cô cũng mơ thấy giọng của họ cất lên với cô, họ gọi cô, họ hét lên ở đâu đó ngoài thế giới rộng lớn, và cô phải ra đi, xa, rất xa, thế nhưng, cô có cảm giác vẫn đang ở trong nhà của bố cô, cô không gặp các anh, nhưng cô cảm thấy cháy bỏng trong lòng bàn tay một cái gì đó giống như lửa, tuy nhiên nó không làm cô thấy đau, cô đang cầm viên đá quý rực sáng và mang nó lại cho bố. Lúc tỉnh dậy, ngay lập tức cô nghĩ mình vẫn còn cầm nó; cô đang nắm chặt lấy cái xa. Suốt nhiều đêm dài, cô đã xe chỉ không ngừng; quanh cọc sợi quấn một sợi chỉ mảnh hơn sợi dây mà nhện có thể dệt; mắt người không thể nhìn thấy sợi dây đó; cô đã dùng nước mắt của mình thấm đẫm nó, và nó trở nên chắc chắn như dây buộc mỏ neo. Cô nhỏm dậy, cô đã quyết định, cần phải hiện thực hóa giấc mơ này. Đang là đêm, bố cô đang ngủ, cô hôn lên tay ông, cầm cọc sợi và buộc đầu sợi dây vào ngôi nhà của bố cô, nếu không, cô, vốn dĩ bị mù, hẳn sẽ không bao giờ tìm được đường về nhà; cô sẽ có thể giữ sợi chỉ, cô tin tưởng vào nó, chứ không phải vào chính bản thân cô hay những người khác. Cô hái bốn chiếc lá từ Cây Mặt Trời, chúng giống như bức thư, như lời chào, cô những muốn trao chúng cho các ngọn gió để gió mang chúng đến cho các anh cô, nếu như chẳng bao giờ cô gặp được họ ngoài thế giới rộng lớn. Chuyện gì sẽ xảy ra với đứa trẻ mù khốn khổ này? Và thế nhưng, cô có sợi dây vô hình mà cô có thể nắm lấy; hơn bất kỳ ai khác, cô sở hữu một năng lực: lòng hăng say, và chính nhờ đó mà như thể các đầu ngón tay cô có những con mắt, và trái tim cô thì có tai.

Thế là cô ra đi, bước vào thế giới hoạt náo, ồn ào, kỳ lạ, và mọi nơi nào cô tới, mặt trời đều bừng sáng trên cao, cô có thể cảm thấy tia nắng ấm áp, cầu vồng bung mình từ đám mây đen và vươn lên trong bầu không khí xanh lơ; cô nghe thấy những tiếng chim hót, cô nhận được mùi thơm các rặng cam và vườn táo, đậm đến mức cô thấy như thể mình nếm được chúng. Một thứ âm nhạc êm dịu và một tiếng hát tuyệt diệu vẳng đến cô, nhưng cũng có cả những tiếng hú và tiếng hét nữa; các ý nghĩ và ý kiến tạo thành một sự tương phản kỳ khôi. Trong những góc khuất nhất của trái tim cô, vang lên âm vọng trái tim và âm vọng suy nghĩ của con người. Tiếng hát một dàn đồng ca cất lên, uy nghi:

Cuộc sống nơi hạ giới chỉ toàn mưa và mưa phùn,
Chỉ có màn đêm, nơi chúng ta than khóc!

Nhưng bài hát cũng nói:

Cuộc sống nơi hạ giới là một bụi hoa hồng
Ngập trong nắng và niềm vui.

Và nếu giọng điệu cay đắng:

Mỗi con người chỉ nghĩ đến bản thân
Một sự thật mới chắc chắn làm sao.

Thì lại có lời đáp:

Một dòng suối tình yêu nồng nhiệt
Tưới đẫm lên cuộc sống chúng ta

Chắc chắn cô nghe thấy những lời này:

Mọi thứ nơi đây sao mà đê tiện
Thứ gì cũng hạ đẳng xấu xa

Nhưng cô cũng nghe thấy:

Bao điều lớn lao và tốt đẹp xảy đến
Nhưng thế giới chẳng nghe thấy bao nhiêu!

Và dẫu tiếng hát mạnh mẽ của một dàn đồng ca vang vọng khắp mọi nơi:

Hãy chế nhạo và cười giễu mọi thứ trên đời
Hòa tiếng với lũ chó sủa liên hồi!

thì trái tim cô gái mù vẫn nói:

Hãy là chính mình, đặt lòng tin nơi Chúa
Nương tựa ý chí của Người, amen!

Và khắp nơi nào cô đặt chân tới, giữa những đàn ông và phụ nữ, giữa những người già và người trẻ, hiểu biết về cái đúng, cái tốt và cái đẹp đều soi sáng các tâm hồn; khắp mọi nơi cô đến, trong xưởng của nghệ sĩ, trong phòng khách tráng lệ và sẵn sàng cho bữa tiệc, cũng như tại nhà máy giữa những cỗ máy kêu rầm rì, cứ như thể tia mặt trời cũng tới, như thể sợi dây rung lên, hoa ngát hương, và giọt sương mát lành rơi lên chiếc lá đang tàn úa.

Nhưng con quỷ không thể chịu được cảnh tượng đó; nó có nhiều trí tuệ hơn so với mười nghìn người, và nó biết phải tiến hành công việc như thế nào. Nó tới đầm lầy, vớt lấy bọt của nước đọng, làm vang lên bảy lần lời dối trá ở trên chúng, vì làm thế thì chúng sẽ trở nên mạnh hơn; nó nghiền nhỏ những bài thơ ngợi ca có được nhờ bỏ tiền mua và những lời ai điếu dối trá, với số lượng lớn hết cỡ mà nó có thể tìm được, nấu chúng lên trong các giọt nước mắt mà lòng ghen tị đã làm rơi xuống, đổ lên trên thứ son phấn cạo ra từ gò má héo tàn của một cô gái già, và từ đó làm ra một đứa bé gái, có hình dạng và cử chỉ giống hệt cô bé mù tốt bụng, “thiên thần dịu dàng của lòng hăng say”, đó là tên mà người ta đặt cho cô, và như vậy, con quỷ có thể tiếp tục trò chơi của nó. Thế giới không còn biết trong hai đứa bé đâu mới là đứa thật, và làm cách nào thế giới có thể biết được đây?

Hãy là chính mình, đặt lòng tin nơi Chúa
Nương tựa ý chí của Người, amen!

cô gái mù vẫn hát, lòng đầy tin tưởng. Cô tung bốn chiếc lá màu lục của Cây Mặt Trời lên cho gió cuốn đi, chúng cuốn những chiếc lá, bức thư và lời chào gửi tới các anh của cô, và cô chắc chắn điều đó sẽ được thực hiện, rằng cả điều đó cũng sẽ được thực hiện, rằng họ sẽ tìm được viên đá quý, thứ vượt xa mọi vẻ rực rỡ con người; từ trên vầng trán nhân loại, nó sẽ rọi sáng đến tận ngôi nhà của bố cô.

- Đến nhà của bố mình! cô nhắc lại, đúng, viên đá quý ở trên mặt đất, mình thấy vô cùng chắc chắn về điều này; mình cảm thấy ngọn lửa bừng cháy của nó, càng lúc nó càng lớn thêm lên trong bàn tay nắm chặt của mình! Mỗi hạt nhỏ của sự thật, dẫu mỏng manh đến đâu, mà cơn gió dữ mang theo, thổi thốc tới chỗ mình, mình đều nhặt lấy và cất vào một chỗ; mình ướp chúng trong hương thơm của cái đẹp, trên thế giới có đến là nhiều, ngay cả đối với người mù; mình đã nhặt lấy tiếng đập của trái tim con người sống trong cái tốt, rồi cho thêm vào đó; mọi thứ gì mình mang về chỉ là bụi, nhưng tuy vậy đó là hạt bụi của viên đá quý được tìm kiếm, thật là nhiều, đầy trên tay mình! và cô chìa nó cho… bố của cô. Cô đang ở nhà; cô đã tới đó bằng đường bay của ý nghĩ, bởi vì cô đã không bỏ tay khỏi sợi dây vô hình đưa cô về nhà bố cô.

Các sức mạnh xấu xa ồn ào như cơn lốc chạy bổ đến chỗ Cây Mặt Trời, lao vào căn phòng bí mật sau khi đã mở cửa bằng một cơn gió.

- Gió sẽ cuốn nó đi mất! ông bố vừa kêu lên vừa cầm lấy bàn tay cô bé đang xòe ra.

- Không! cô kêu lên, hết sức bình tĩnh, gió không thể cuốn nó đi! con cảm thấy tia nắng sưởi ấm tâm hồn con!

Và ông bố nhìn thấy một ngọn lửa bừng sáng, tại nơi bụi lấp lánh vọt ra từ bàn tay con gái ông để bay tới cái trang trắng của quyển sách, nơi phải thông báo sự chắc chắn về một cuộc sống vĩnh cửu; một lóe chớp chói lòa phát ra từ một dòng chữ, từ một chữ duy nhất hiển hiện, từ cái từ độc nhất này:

LÒNG TIN

Và bốn người con trai lại ở nhà của họ; ham muốn nhìn thấy lại tổ ấm đã xâm chiếm lấy họ và dẫn dắt họ, khi chiếc lá màu lục rơi xuống ngực; họ đã về, lũ chim di cư đi theo, cũng như hươu, linh dương và mọi loài thú trong rừng: chúng cũng muốn được hội tụ với niềm vui, và tại sao các con thú lại không được làm như vậy, nếu chúng có thể?

Và cũng như chúng ta vẫn hay nhìn thấy, khi tia nắng lọt qua một cái lỗ trên cửa vào căn phòng đầy bụi, một cột bụi sáng bừng xoay vần, giống thế nhưng không nặng nề và cũng không nghèo nàn như bụi thông thường - so với cảnh tượng bày ra lúc đó, bản thân cầu vồng cũng trở nên nặng nề và các màu của nó thì không đủ sống động - theo cùng cách thức như vậy, mỗi hạt của sự thật vươn lên từ trang sách, từ cái từ “lòng tin” sáng chói, kèm với lóe chớp của cái đẹp, và của thanh âm cái tốt, và nó bừng sáng còn mạnh mẽ hơn cột lửa, trong đêm, khi Moses và dân tộc Israel tiến về phía vùng đất Canaan; và khởi đi từ cái từ “lòng tin”, cây cầu của hy vọng hội vào với tình yêu tối thượng, trong vô tận.



các truyện của Andersen:

Andersen: Một câu chuyện từ những đụn cát
Andersen: Anne Lisbeth
Andersen: Đứa bé gái giẫm chân lên ổ bánh mì
Andersen: Mộc thần nữ
Andersen: "Năm hạt đậu nhỏ chui ra từ vỏ đậu", "Đứa trẻ tật nguyền", "Thiên thần"
Andersen: Cây đèn đường cũ
Andersen: Con gái chúa tể đầm lầy
Trở về cổ điển: Andersen

6 comments:

  1. mỗi con người là một cái nồi! còn ngôi nhà kính ở Ấn Độ trên Cây Mặt Trời treo đầy tivi màn phẳng siêu lớn và ông thông thái dùng "ánh sáng của các sức mạnh bị giấu kín và ánh sáng của tinh thần," để truy tầm sóng hấp dẫn. and so on haha. nên suy ra là trong các truyện Andersen còn rất nhiều dòng chữ chưa đọc được, cho đến lúc này, y hệt cuốn "Sách Sự Thật" trong truyện này. "vả lại làm gì có dịch vụ bưu điện." cũng như dịch vụ xuất bản cho cuốn đó. chưa, nhỉ?

    ReplyDelete
  2. truyện này rất đáng kinh ngạc, vô cùng đáng kinh ngạc

    đoạn cuối của nó mới thực sự là khiếp đảm: mọi thứ đều ở đó, và cũng chính vì như vậy cho nên không thể "đọc" được (những gì muốn đọc) :p

    ReplyDelete
  3. Đọc cậu Nhìn, cậu Nghe xong, gai gai người rồi í, hình dung một cái gì đấy khốc liệt anh ạ. Tự nhiên nghĩ: Thu các giác quan, thu mình lại.
    <3

    ReplyDelete
  4. À, cháu bé quên không kí tên đóng dấu EMi
    <3

    ReplyDelete
  5. cũng không nên thu lại nhiều quá :p

    ReplyDelete